Hồi ức về ngày 30/4: Khúc quanh lịch sử
Đây là loạt bài hồi ức
về biến cố 30/4/1975 theo cách nhìn từ 3 phía: Sài Gòn - Hà Nội - Washington. Người viết
cố gắng tổng hợp các nguồn thông tin để người đọc có một tầm nhìn khái quát về
một bước ngoặt lịch sử.
Đối với nhiều người, 30/4/1975 là ngày dài nhất trong lịch
sử cận đại của Việt Nam.
Tại Sài Gòn và phần còn lại của niền Nam
vào những ngày cuối tháng 4/1975, hàng triệu người dân Việt Nam bắt đầu tự
đặt cho mình 1 câu hỏi mấu chốt: họ có thể sống được dưới chế độ mới hay tốt
hơn là trốn chạy?
Trong các ngày 28, 29/4 từ các hàng không mẫu hạm ngoài khơi
Thủy quân lục chiến Mỹ dùng trực thăng di tản người nước ngoài và một số người
Việt đã từng cộng tác chặt chẽ với họ, trong đó có Chiến dịch Babylift (Operation Babylift), di tản những trẻ mồ côi
ra khỏi Việt Nam. Cuộc di tản đã diễn ra trong lộn xộn và tình hình hỗn mang vì
rất nhiều người muốn ra đi nhưng phương tiện lại có hạn.
Các điểm bốc người di tản bằng trực thăng trở nên hỗn loạn.
Lính Thuỷ quân lục chiến Mỹ đã phải rất vất vả mới duy trì được trật tự, họ thậm
chí còn dùng sức mạnh thô bạo để sẵn sàng gạt phăng những người bạn đồng minh
người Việt trong cơn hoạn nạn.
Bức hình cho thấy cảnh tàn nhẫn khi di tản
Người Mỹ đã phải bỏ lại Việt Nam nhiều người bạn lâu năm của
mình. Hình ảnh di tản đã in đậm trong trí óc nhiều người Mỹ và Việt như một kỷ
niệm rất đau buồn. Đại sứ Graham Martin là một trong những người Mỹ cuối cùng
ra đi sau khi xếp lá cờ Mỹ trong khuôn viên tòa đại sứ. Tuy nhiên, trong số
120.000 người Việt và 20.000 người Mỹ được di tản trong đợt này, không có một
người nào bị thiệt mạng do hoạt động quân sự của quân Bắc Việt.
Lực lượng tấn công Sài Gòn dừng lại bên ngoài thành phố một
ngày (29/4/1975) để người Mỹ di tản hết rồi mới tiến vào thủ đô của VNCH. Theo
lời tướng Trần Văn Trà, họ đã đợi vì mục đích chính là để ‘giải phóng Sài Gòn’ chứ không phải để giết người. Còn theo hồi ký
của tướng Hoàng Cầm, cánh quân của Quân đoàn 4 mà ông chỉ huy gặp rất nhiều
kháng cự trên đường tiến về Sài Gòn và chỉ đến nơi vừa kịp vào sáng ngày
30/4/1075.
8 giờ sáng 30/4, Tổng thống Dương Văn Minh và Bộ tổng tham
mưu quân đội VNCH hạ lệnh đơn phương ngừng bắn, sẵn sàng đón quân đối phương
vào Sài Gòn để bàn giao chính quyền.
9 giờ sáng, chiếc trực thăng cuối cùng của Mỹ rời nóc tòa
Đại Sứ, tướng Trần Văn Trà lệnh cho quân Giải Phóng tiến vào Sài Gòn từ năm
hướng. Họ đã tiến nhanh mà không gặp kháng cự.
Chiếc T-64 đầu tiên tiến vào dinh Độc Lập
10 giờ 45 phút ngày 30/4, xe tăng T-64 mang số hiệu 843 húc
nghiêng cổng phụ và bị kẹt tại đó. Bùi Quang Thận (Đại đội trưởng, chỉ huy xe 843)
nhảy xuống xe, cầm cờ chạy bộ vào. Xe tăng mang số hiệu 390 húc tung cánh cửa
chính của dinh Độc Lập.
11 giờ 30 phút cùng ngày, Trung úy Bùi Quang Thận đã hạ lá
cờ VNCH trên nóc dinh Độc Lập, thay vào đó là cờ màu đỏ-xanh của Mặt trận Dân
tộc Giải phóng miền Nam.
Cùng lúc này, Đại úy trung đoàn phó Trung đoàn 66 Phạm Xuân
Thệ cùng lực lượng đột kích thuộc Quân đoàn 2 và biệt động thành Sài Gòn tiến
vào dinh Độc Lập, tiếp cận với Tổng thống cuối cùng của VNCH là ông Dương Văn
Minh cùng toàn bộ những nhân vật chủ chốt của nội các chính quyền Sài Gòn. Tổng
thống Dương Văn Minh đã tuyên bố đầu hàng vô điều kiện.
Khoảng 12 giờ trưa, đại úy Phạm Xuân Thệ đưa tổng thống
Dương Văn Minh và Thủ tướng Vũ Văn Mẫu lên xe Jeep để đến đài phát thanh Sài
Gòn. Chiếc xe thứ hai chở Trung tá chính ủy lữ đoàn xe tăng 203 Bùi Văn Tùng
cùng hai nhà báo Borries Gallasch (người Đức, báo Der Spiegel) và Hà Huy Đỉnh (hãng thông tấn AP). Tại đài phát
thanh, Tổng thống Dương Văn Minh đã đọc tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Thay
mặt các đơn vị Quân giải phóng đánh chiếm dinh Độc Lập, Trung tá Bùi Văn Tùng
đọc lời tiếp nhận đầu hàng. Chiến tranh kết thúc.
Theo Jean Louis Margolin, tác giả xác nhận là không có tắm
máu trong ngày quân Giải phóng tiến vào Sài Gòn nhưng sau đó đã đưa ra con số
200 ngàn người bị giam giữ theo xác nhận của Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Tuy
nhiên, về việc này, tác giả ghi thêm: "Những
ước tính nghiêm chỉnh nói từ 500 ngàn đến một triệu tù nhân trong tổng số dân
là 20 triệu".
***
Báo Tuổi Trẻ có
một bài viết về hoạt động của Tướng Dương Văn Minh vào sáng ngày 30/4/1975 như
sau:
“… Sau khi được thông
báo trả tự do, tướng Dương Văn Minh đã có cuộc gặp gỡ thân mật với tướng Trần
Văn Trà - Chủ tịch Ủy ban quân quản Sài Gòn - Gia Định.
“Đoàn xe chở Tổng
thống Dương Văn Minh và Thủ tướng Vũ Văn Mẫu chạy theo đường Thống Nhất [bây
giờ là đường Lê Duẩn], quẹo trái qua
đường Nguyễn Bỉnh Khiêm để đến Đài phát thanh. Dù khá mệt mỏi và căng thẳng
trước những gì vừa diễn ra, tướng Minh vẫn ôn tồn chỉ đường cho lái xe Đào Ngọc
Vân.
Tổng thống Minh và Thủ tướng Mẫu
được đưa qua Đài phát thanh để đọc lời tuyên bố đầu hàng
“Trụ sở Đài phát thanh
lúc đó khá vắng lặng, dù đã được quân giải phóng và anh em sinh viên tiếp quản.
Nhân viên đã “biến” hết sau khi hay tin quân giải phóng đã chiếm được dinh Độc
Lập.
“Việc đầu tiên là phải
tìm cho được những người có thể vận hành đài phát. Anh em sinh viên tìm được
anh Trần Văn Bảng, nhân viên kỹ thuật phát sóng trú ngụ ở gần đó. Còn nhà báo
Kỳ Nhân lại tức tốc lái chiếc UTE của Hãng tin AP chở hai anh bộ đội về làng
báo chí Thủ Đức để mời hai anh Trọng Liêm và Tự Lập đến đài.
“Sau khi lời tuyên bố
đầu hàng đã được chỉ huy quân giải phóng soạn thảo, ông Dương Văn Minh lúc đó
phải đọc và ghi âm hai lần vào máy của nhà báo Borries Gallasch [máy
cassette hiệu Hitachi của quân giải phóng bị rối băng liên tục, không dùng
được]. Lần đầu, ông Minh có lẽ hơi bị xúc
động nên đọc không tự nhiên và bị vấp, đồng thời khi bật máy nghe lại băng thì
giọng ông Minh... nhão nhoẹt vì máy yếu pin. Anh em sinh viên có mặt lúc đó
phải chạy ra ngoài, tìm đâu đó được mấy cục pin mới.
“Tiếng nói của ông
Minh phát trên đài nghe nhẹ và chậm rãi. Còn lời chấp nhận đầu hàng của viên
Trung tá chính ủy người Đà Nẵng, Bùi Văn Tùng, lại vang lên khá dõng dạc và
mạnh mẽ. Mà cũng lạ, vào lúc ấy rất nhiều giọng Đà Nẵng xuất hiện trên sóng
phát thanh: Trung tá Bùi Văn Tùng, nhà báo Kỳ Nhân, sinh viên Nguyễn Hữu Thái….
Văn kiện đầu hàng và chấp nhận
đầu hàng của Tướng Minh
do Phạm Xuân Thệ và Bùi Văn
Tùng soạn
“Nhà báo Kỳ Nhân “kêu
gọi anh em ký giả hãy bình tĩnh, hãy tập trung ở số 15 Lê Lợi để cùng trao đổi
và làm việc [lúc này tự nhiên có tiếng súng nổ vang dội vào Đài phát thanh,
anh Kỳ Nhân dù chưa biết chuyện gì cũng “ứng khẩu” luôn]… “Đó là tiếng súng bắn mừng của quân giải phóng. Chúng ta đã thấy hòa
bình trên đất nước của chúng ta”.
“Còn sinh viên Nguyễn
Hữu Thái lại trở thành người dẫn chương trình bất đắc dĩ. Anh liên tục thông
báo, liên tục trấn an đồng bào và kêu gọi anh em công chức, nhân viên các cơ
quan hãy trở lại nhiệm sở để giúp cho sinh hoạt ở Sài Gòn trở lại bình thường.
“Tất cả đều nói thẳng
vào máy phát nên nhiều khi ý tứ nghe rất ngộ, thí dụ: “Đây là tiếng nói của các
Ủy ban Cách mạng Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định. Chúng tôi yêu cầu tất cả đồng
bào, anh chị em công nhân, nhất là anh chị em nhân viên các nhà đèn, các nhà
nước [chắc ý nói công ty thủy cục – Chú thích của NNC] và tất cả SVHS tụ họp để mà có những cuộc điều động của Ủy ban Nhân
dân Cách mạng…”.
“Xen lẫn với những lời
kêu gọi, tuyên bố là tiếng vỗ tay, tiếng người nói chuyện bàn tán qua lại. Thậm
chí ngay sau khi chính ủy Bùi Văn Tùng tuyên bố rất hùng hồn thì bỗng phát ra
một đoạn cải lương inh ỏi…
“Đặc biệt, người dân
Sài Gòn lần đầu tiên nghe đến tên gọi Thành phố Hồ Chí Minh từ buổi phát thanh
“tự phát” này. Nguyễn Hữu Thái lúc đó nói: “Chúng tôi là giáo sư Huỳnh Văn Tòng
và cựu chủ tịch Tổng hội Sinh viên Sài Gòn, Nguyễn Hữu Thái. Đời sống bình
thường đã trở lại Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh, thành phố mà Bác Hồ đã mong
đợi, nay đã được giải phóng…”.
“Không ai phân công,
không ai duyệt nội dung, không ai chỉ đạo định hướng gì, nhưng quả tình những
lời kêu gọi, thông báo “tự biên tự diễn” đầy rạo rực và chân tình đó đã có tác
dụng rất lớn đối với đồng bào trong giờ phút căng thẳng. Cần phải hiểu là trong
thời khắc “đổi đời” lịch sử đó, sự âu lo tràn ngập nhiều gia đình, nhất là
những gia đình có người thân tham gia bộ máy chính quyền hoặc quân đội VNCH.
Sài Gòn trước đó đã lan truyền tin đồn về một cuộc “tắm máu” và những biện pháp
bạo lực của Việt cộng.
“14h. Đoàn xe đưa ông
Dương Văn Minh và Vũ Văn Mẫu từ Đài phát thanh trở về dinh Độc Lập. Họ được đưa
vào một gian phòng lớn gần tiền sảnh, có bộ đội vũ trang đứng gác thường trực
bên ngoài. Đó cũng là nơi các thành viên nội các, dân biểu, nghị sĩ... có mặt ở
dinh Độc Lập sáng 30/4 phải sống 48 giờ mà không được liên lạc gì với bên
ngoài.
“15h45. Những tiếng nổ
lớn bắt đầu từ phía công viên Tao Đàn, phía sau dinh Độc Lập, tiếp theo là
những tiếng súng đủ loại. Vài giây sau, đạn cối rơi xuống nổ liên tiếp giữa sân
dinh, đúng lúc tướng Nguyễn Hữu An, tư lệnh Quân đoàn 2 quân giải phóng đang đi
bách bộ cùng một sĩ quan tác chiến tên Duyến. Duyến bị mảnh đạn cối găm vào
mắt. Tư lệnh Nguyễn Hữu An không bị sao. Lực lượng bộ đội bảo vệ dinh báo động:
“Quân địch phản công!”.
“Ông Dương Văn Minh và
gần 20 người khác được đưa từ gian phòng nói trên xuống một căn hầm bên dưới
hội trường lớn. Gần 60 phút trôi qua. Mọi người bắt đầu bị ngợp. Dân biểu
Nguyễn Văn Binh lần dò ra cửa, đề nghị anh bộ đội cho ra ngoài lấy nước. Ông
lượm một cái nón sắt cũ, hứng nước ở vòi nước máy rồi mang vào căn hầm. Cái nón
sắt được chuyền từ người này sang người khác. Mọi người cứ bưng nón sắt mà
uống. Ông Minh cũng vậy.
“Rồi tiếng súng tự
nhiên im bặt. Hóa ra là “quân ta đánh quân mình”: Một đơn vị quân giải phóng từ
hướng nam về không có ám hiệu đúng, thế là…
“Mọi người được đưa
trở về căn phòng cũ và trải qua hai ngày đêm đáng nhớ ở đó. Chuẩn tướng Nguyễn
Hữu Hạnh cũng bị “giam lỏng” như thế. Sự quản thúc chỉ được chấm dứt vào chiều
tối 2/5.
“Ông Dương Văn Minh,
Nguyễn Văn Huyền, Vũ Văn Mẫu, Nguyễn Văn Hảo, Nguyễn Văn Binh… được trả tự do.
Quyết định trả tự do của Ủy ban quân quản được thông báo tại buổi lễ trang
trọng và thân mật tại hội trường dinh Độc Lập tối 2/5/1975. Tại buổi lễ này,
Phó chủ tịch Ủy ban quân quản Sài Gòn - Gia Định Cao Đăng Chiếm đã phát biểu
với một chất giọng miền Nam
trầm ấm:
“...Nhân dân Việt Nam
chúng ta đã trải qua cuộc đấu tranh anh dũng và khốc liệt, đánh bại cuộc chiến
tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, đánh bại chính sách Việt Nam hóa chiến tranh để
giành thắng lợi vĩ đại và vô cùng to lớn từ xưa đến nay.
“Thi hành chính sách
của Chính phủ Cách mạng Lâm thời, Chính phủ mong rằng trong tình hình mới,
chúng ta hãy cùng nhau nỗ lực xây dựng lại Tổ quốc của chúng ta, làm cho nhân
dân chúng ta giàu mạnh, Tổ quốc của chúng ta hùng cường. Do đó, chúng tôi mong
rằng mỗi người VN chúng ta đều tùy theo khả năng của mình, góp công sức vào
việc xây dựng Tổ quốc của chúng ta.
“Bữa nay, thi hành
lệnh của cấp trên, các anh được tự do về với gia đình. Chúng tôi sẽ tổ chức đưa
các anh về đến nơi đến chốn…”. [Trích băng ghi âm]
Đáp lại, ông Dương Văn
Minh nói ngắn gọn thế này:
“ …Ngày hôm nay, đại
diện cho các anh có mặt tại đây, tôi nhiệt liệt hoan nghênh sự thành công của
Chính phủ cách mạng trong công cuộc vãn hồi hòa bình cho đất nước. Với kỷ
nguyên mới này, tôi mong rằng tất cả anh em có mặt tại đây, cũng như các tầng
lớp đồng bào, sẽ có dịp đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng đất nước.
“Riêng cá nhân tôi,
hôm nay tôi rất hân hoan khi được 60 tuổi, trở thành một công dân của một nước
Việt Nam độc lập”. [Trích băng ghi âm]
“Mọi người được về với
gia đình ngay sau buổi lễ đó. Chiếc xe Ford màu xanh dương đậm đưa ông Minh ra
khỏi dinh Độc Lập lúc 22 giờ. Khi xe chuyển bánh, vị Tổng thống 48 giờ nói:
- Thôi, giã từ quá khứ
chết chóc. Vĩnh viễn hòa nhập vào đời sống hòa bình.
***
Theo nội dung bài báo Tuổi
Trẻ nêu trên, có thể nói, Nguyễn Hữu Thái, cựu chủ tịch Tổng hội sinh viên
Sài Gòn (1963-1964) và sau này là một kiến trúc sư, là người đầu tiên đề cập
đến việc Sài Gòn đổi tên thành Thành phố Hồ Chí Minh ngay ngày 30/4/1975: “…Đời sống bình thường đã trở lại Sài Gòn -
Thành phố Hồ Chí Minh, thành phố mà Bác Hồ đã mong đợi, nay đã được giải phóng…”.
Tuy nhiên, phải đợi đến ngày 2/7/1976 tức là 3 tháng sau, Quốc hội nước Việt
Nam Thống nhất mới quyết định đổi tên Sài Gòn thành "Thành phố Hồ Chí
Minh".
Trong bài “30/4/1975,
Dương Văn Minh và Tôi”, viết vào tháng 3/2008, Nguyễn Hữu Thái đã kể lại
hoạt động của mình trong ngày 30/4/1975:
“Sáng tinh mơ ngày
30/4, từ cơ sở chuẩn bị nổi dậy của sinh viên ở Đại học Vạn Hạnh (gần chợ
Trương Minh Giảng), tôi bàn với Nguyễn Trực người thân cận với Thượng tọa
Trí Quang rồi chạy vội lên chùa Ấn Quang (đường Sư Vạn Hạnh) gặp vị sư lãnh đạo
Phật giáo có ảnh hưởng lớn trên nhóm Dương Văn Minh này.
“Lâu nay tôi vẫn giữ
mối quan hệ tốt đẹp với ông, tuy ông biết rõ tôi đến từ phía nào rồi. Tôi báo
ngay: “Tình hình cấp bách quá rồi, xin Thầy làm sao tác động gấp nhóm ông Minh
chủ động tìm cách chấm dứt ngay cuộc chiến để tránh đổ máu và tàn phá Sài Gòn.
Các đường giây liên lạc với bên kia nay đã đứt hết rồi, không còn thì giờ đưa
giải pháp này nọ nữa đâu…”
“Thượng tọa Trí Quang
hiểu ngay và choàng áo sang phòng bên gọi điện thoại. Tôi nghe vị Thượng tọa
nói chuyện qua lại một hồi, rồi quay về cho biết:
- Thái cứ yên tâm,
Thầy không gặp được ông Minh [Tổng thống mới nhậm chức], nhưng đã nói chuyện với ông Mẫu [Vũ Văn
Mẫu, Thủ tướng nội các mới], có lẽ họ
cũng nhanh chóng hành động theo hướng đó…
“Tôi quay về Đại học
Vạn Hạnh và khoảng hơn 9 giờ [giờ Sài Gòn thời đó, sớm hơn ngày nay một
giờ], thì nghe tướng Dương Văn Minh tuyên
bố trên đài phát thanh Sài Gòn:
“Đường lối chủ trương của chúng tôi là hòa giải và hòa
hợp dân tộc để cứu sinh mạng đồng bào. Tôi tin tưởng sâu xa vào sự hòa giải của
người Việt Nam để khỏi thiệt
hại xương máu của người Việt Nam.
Vì lẽ đó, tôi yêu cầu tất cả anh em chiến sĩ Việt Nam Cộng hòa hãy bình tĩnh,
không nổ súng và ở đâu ở đó. Chúng tôi cũng yêu cầu anh em chiến sĩ Chính phủ
Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam
Việt Nam
ngưng nổ súng. Chúng tôi ở đây chờ gặp Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa
Miền Nam Việt Nam để cùng nhau thảo luận lễ bàn giao chính quyền trong một trật
tự, tránh đổ máu vô ích của đồng bào”. [Theo băng ghi âm của Chuẩn tướng
Nguyễn Hữu Hạnh nay còn cất giữ].
“Sinh viên chúng tôi bèn chia làm 2 mũi lên đường hướng
về các đài phát thanh và truyền hình nhắm chiếm đài, phát đi tiếng nói cách
mạng. Một nhóm anh em sinh viên có trang bị vũ khí nhẹ lên xe ca đến Đại học
Nông lâm súc, áp sát chuẩn bị xâm nhập vào các đài. Tôi cùng nhà báo Nguyễn Vạn
Hồng và giáo sư Huỳnh Văn Tòng [tiến sĩ sử học ‘tiến bộ’ ở Pháp về, giảng
dạy báo chí ở các đại học] vào dinh Độc Lập nhằm thuyết phục những người
quen biết trong chính quyền tướng Minh bàn giao chính quyền VNCH cho phía Mặt
trận Dân tộc Giải phóng một cách êm thắm nhất.
“Khoảng 10 giờ, chúng
tôi lên chiếc xe Renault 8 màu xanh của Hồng. Nhà báo có giấy phép đặc biệt vào
ra Phủ Tổng thống nên chắc không có gì trở ngại. Nhưng khi xe chạy vào cửa hông
đường Nguyễn Du, thấy vắng tanh nên tiến thẳng luôn vào thềm dinh. Tôi vội vàng
đi tìm Lý Qúy Chung, lúc đó là Tổng trưởng Thông tin duy nhất được chỉ định
chính thức trong Nội các mới. Chung đồng ý ra đài phát thanh ngay với chúng tôi
trên một công xa, nhưng không một tài xế nào chịu lái đi vì sợ bị bắn.
[Nhân vật Lý Quí Chung được đề cập đến trong cuốn Saigon Stories của Sam Korsmoe, trong Hồi ức một đời người – Chương 7: Thời mở cửa – Chú thích của NNC]
“Chúng tôi đang loay
hoay thì bỗng mọi người cùng hướng nhìn về đại lộ Thống Nhất [Lê Duẩn ngày
nay]. Một cảnh tượng hùng tráng diễn ra:
một đoàn xe tăng rầm rộ tiến về hướng dinh. Bổng chốc cổng dinh bị húc đổ, đoàn
tăng cày lên thảm cỏ, tiến thẳng đến thềm dinh. Tôi và anh Huỳnh Văn Tòng giúp
người bộ đội xe tăng cầm cờ Giải phóng cắm lên nóc dinh.
“Phải ra ngay đài phát
thanh, tôi tháp tùng xe của Chính ủy Bùi Văn Tùng cùng các nhà báo Tây Đức Von
Boric Gallasch và Hà Huy Đĩnh đưa Tổng thống Dương Văn Minh, Thủ tướng Vũ Văn Mẫu và Tổng trưởng Thông
tin Lý Quí Chung ra đài phát thanh.
Bùi Văn Tùng và phóng viên Borries Gallasch
“Anh em sinh viên đã
cùng bộ đội chiếm giữ đài rồi nhưng không vận hành được cũng như không biết
phát đi nội dung gì. Chúng tôi tìm được anh Trần Văn Bảng, kỹ thuật viên phát
thanh vận hành lại đài, còn nhà báo Đức thì cho mượn chiếc cát-xết thu lời đầu
hàng của tướng Minh và lời chấp nhận đầu hàng của chính ủy Bùi văn Tùng, do
chính ông Tùng soạn thảo.
“Tướng Minh nhìn thấy
tôi trong đám người này có vẻ cũng yên lòng. Trông ông mệt mỏi và không mấy
vui. Thân hình ông vẫn to lớn nhưng mặt ông hơi hốc hác. Dẫu sao ông cũng đã hy
sinh danh dự của một tướng lãnh (dù là một tướng bại trận) để thực sự cứu thành
phố này khỏi cảnh tàn phá và đổ nát.
“Sau này tôi mới biết
là ông và bộ tham mưu từ mấy ngày qua đã quyết định đầu hàng dẫu có bị đối xử
không tương xứng của phía đối nghịch. Đó cũng là một hành động can đảm và đáng
ca ngợi của một Phật tử vào cuối đời. Có lẽ ông chưa bao giờ thành công trong
hoạt động chính trị. Ông chỉ là nhân vật cần thiết của tình thế nhưng không nắm
được quyền lâu dài.
“Vào năm 1963, không
ai ngoài ông trong số tướng lãnh đủ uy tín đứng ra lãnh đạo cuộc đảo chính lật
đổ Tổng thống Ngô Đình Diệm. Lần này, có lẽ chính quyền VNCH cũng không còn con
bài nào khác để chấm dứt cuộc chiến một cách êm thắm. Ít ra ông còn giữ được
nguyên vẹn Sài Gòn và phần còn lại của miền Nam tránh khỏi đổ nát và đổ máu
thêm một cách vô ích trong cuộc thư hùng cuối cùng giữa những người anh em ruột
thịt.
“Tôi nhìn sang Giáo sư
Vũ Văn Mẫu, ông có vẻ bình thản trong bộ complê màu xanh nhạt luôn chỉnh tề của
một nhà giáo đại học. Khi còn học ở khoa Luật, tôi rất thích lối giảng các bài
pháp chế sử, mạch lạc, hùng biện và cả hóm hỉnh của ông. Tuy xuất thân trong
gia đình quan lại miền Bắc và di cư vào Nam năm 1954, khi nổ ra vụ tranh đấu
Phật giáo năm 1963, đang giữ chức vụ Bộ trưởng Ngoại giao VNCH ông can đảm từ
nhiệm và cạo trọc đầu phản kháng Ngô Đình Diệm đàn áp Phật giáo. Nay ra lãnh
chức vụ Thủ tướng tôi nghĩ ông không có ước mong gì khác hơn là đem lại hòa
bình, hòa hợp hòa giải thật sự cho dân tộc.
“Về nội dung bản tuyên
bố đầu hàng, tôi nhìn thấy giữa tướng Minh và chính ủy Tùng có lời qua tiếng
lại. Hình như tướng Minh không muốn nêu chữ “Tổng thống” mà dùng tiếng “Đại
tướng” quen thuộc hơn. Ông Tùng cương quyết không chịu vì cho rằng dẫu sao thì
tướng Minh cũng đã làm Tổng thống cuối cùng của chính quyền Sài Gòn, nay phải
tuyên bố với tư cách đó mới ra lệnh được cho cả bên dân sự lẫn quân sự. Thu
băng thử đi thử lại mấy lần mới xong. Lời phát biểu của Thủ tướng Mẫu thì ông
được nói trực tiếp.
“Loay hoay đến gần hai
giờ chiều chúng tôi mới phát đi được tiếng nói cách mạng đầu tiên trên đài phát
thanh Sài Gòn. Nguyên văn tiếng nói mở đầu của tôi:
“Chúng tôi là những người đại diện cho Ủy ban nhân dân
cách mạng Sài Gòn-Chợ Lớn-Gia Định. Chúng tôi là những người đầu tiên tới dinh
Độc Lập trước 12 giờ và đã cùng anh em quân đội giải phóng cắm cờ trên dinh Độc
Lập. Chúng tôi là giáo sư Huỳnh Văn Tòng và cựu chủ tịch Tổng hội sinh viên Sài
Gòn Nguyễn Hữu Thái… Đời sống bình thường đã trở lại Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí
Minh, thành phố mà Bác Hồ đã mong đợi, nay đã được giải phóng… Xin giới thiệu
lời kêu gọi của ông Dương Văn Minh và Vũ Văn Mẫu của chính quyền Sài Gòn về vấn
đề đầu hàng ở thành phố này…”
“Đại tướng Dương Văn
Minh đọc lời đầu hàng theo bản văn do Chính ủy Bùi Văn Tùng soạn thảo:
“Tôi, Đại tướng Dương Văn Minh, Tổng thống chính quyền
Sài Gòn, kêu gọi Quân lực Việt Nam Cộng hòa hạ vũ khí đầu hàng không điều kiện
quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam. Tôi tuyên bố chính quyền Sài Gòn từ trung
ương đến địa phương phải giải tán hoàn toàn. Từ trung ương đến địa phương trao
lại cho Chính phủ Cách mạng Lâm thời Miền Nam
Việt Nam”
Tướng Dương Văn
Minh chuẩn bị tuyên bố đầu hàng
tại đài phát thanh
Sài Gòn trưa ngày 30/4/1975.
Nguyễn Hữu Thái là người thứ 2 (cầm tập giấy)
Nguyễn Hữu Thái là người thứ 2 (cầm tập giấy)
(Bức ảnh do nhà
báo Kỳ Nhân, phóng viên ảnh AP thực hiện)
Giáo sư Vũ Văn Mẫu
phát biểu trực tiếp:
“Trong tinh thần hòa giải và hòa hợp dân tộc, tôi, Giáo
sư Vũ Văn Mẫu, Thủ tướng, kêu gọi tất cả các tầng lớp đồng bào hãy vui vẻ chào
mừng ngày hòa bình của dân tộc, và trở lại sinh hoạt bình thường. Chuyên viên
của các cơ quan hành chính quay trở về vị trí cũ dưới sự hướng dẫn của chính
quyền cách mạng”.
“Tiếp đó là lời Chính
ủy Bùi Văn Tùng:
“Chúng tôi đại diện lực lượng quân Giải phóng miền Nam
Việt Nam long trọng tuyên bố Thành phố Sài Gòn đã được giải phóng hoàn toàn,
chấp nhận sự đầu hàng không điều kiện của ông Dương Văn Minh, Tổng thống chính
quyền Sài Gòn”
“Và tôi tiếp tục dẫn
chương trình: “…Quân Giải phóng đã
tiến vào dinh Độc Lập và đã làm chủ hoàn toàn các điểm chốt quân sự cũng như
dân sự của vùng Sài Gòn-Chợ Lớn-Gia Định…” [Các lời tuyên bố trên
đài phát thanh đều còn giữ lại trong một băng ghi âm do Tiến sĩ sử học Nguyễn
Nhã thu trong chiều 30/4/75]
“Sau đó, bộ đội đưa
đoàn tướng Minh về lại Dinh Độc Lập. Tôi đích thân đứng ra điều hành buổi phát
thanh cho đến 4 giờ chiều thì giao lại cho nhóm anh em sinh viên đại học Khoa
học Sài Gòn, do tôi phải lên trường Petrus Ký (nay là trường Lê Hồng Phong) nơi
đóng quân của ban chỉ huy chiến dịch giải phóng Sài Gòn gặp ông Mai Chí Thọ.
Sinh viên chỉ giao lại đài phát thanh cho ban phát thanh Giải phóng vào tối hôm
đó.
Bùi Thanh trên báo Tuổi
Trẻ, tháng 4/2005, đã kể lại giây phút bộ đội tiến vào dinh Độc Lập sáng
30/4/1975 qua bài viết Giờ kết thúc
như sau:
“…Khi chiếc tăng 390
đỗ xịch trước dinh, chính trị viên đại đội Vũ Đăng Toàn xách AK nhảy xuống, chờ
Bùi Quang Thận đang cầm cờ tiến vào. Cả hai chạy lên thềm dinh trong tư thế sẵn
sàng chiến đấu và với một tinh thần “cảnh giác cao độ”. Bùi Quang Thận hơi lo
khi thấy bên trong lố nhố nhiều người mặc quân phục”.
Chúng ta thông cảm cho trạng thái ‘hơi lo’ của anh Bùi Quang Thận, hiện đã lên chức Đại tá Quân đội
Nhân dân. Không lo sao được khi bước vào Phủ
Đầu Rồng, dù với tư thế của kẻ chiến thắng. Nhất là khi thấy bên trong lố
nhố nhiều người mặc quân phục của hàng ngũ địch.
“…Và có lẽ do “cảnh
giác cao độ” quá nên anh lao thẳng vào cửa kính, ngã bật ra phía sau nhưng tay
vẫn cầm chắc lá cờ. Chắc đây là lần đầu tiên chàng trai miền biển Thái Bình này
mới “tiếp xúc” với loại kính trong suốt như thế. Lúc này, từ trong dinh, một
người bận đồ dân sự chạy ra, thân thiện mời hai anh lính tăng giải phóng vào”.
(Chi tiết có phần khôi hài. Không phải ‘chắc’ mà rõ ràng là
chàng trai gốc Thái Bình cả đời chưa thấy loại kính trong suốt đến nỗi lao
thẳng vào cửa kính thay vì phải mở ra. Cú ngã bật ra phía sau vì đâm sầm vào
cửa kính chắc hẳn là cú shock nhớ đời!)
“…Bùi Quang Thận
thoáng chút bối rối trước tình huống này: không biết phải “xử lý” thế nào với
Tổng thống và mấy ông nội các Sài Gòn, bởi nhiệm vụ của những người lính tăng
như anh là chiếm dinh và cắm cờ. Cuối cùng, Bùi Quang Thận đề nghị Vũ Đăng Toàn
ở lại “canh chừng” các thành viên nội các và chờ cấp chỉ huy đến, còn mình phải
thực hiện cho được nhiệm vụ cắm cờ trên nóc dinh Độc Lập”.
Bằng bất cứ giá nào cũng phải cắm được ngọn cờ “đỏ-xanh có
ngôi sao vàng chính giữa”. Chỉ tiếc một điều lá cờ của Mặt trận Dân tộc Giải
phóng Miền Nam
ít lâu sau biến mất để thay vào đó là cờ đỏ sao vàng. Sẽ là một cái chết vô
tích sự nếu Bùi Quang Thuận bị một viên đạn nào đó trong lúc cắm cờ trên nóc
dinh Độc Lập vì lá cờ đó sẽ không còn hiện diện tại Việt Nam sau này. Không còn là ‘màu cờ
sắc áo’ vì tự nó lá cờ đã biến mất, không đáng để hàng trăm ngàn cán binh phải
gục ngã để bảo vệ nó.
“Người được lệnh hướng
dẫn Bùi Quang Thận đi thang máy lên nóc dinh cắm cờ là đại tá Chiêm, chỉ huy
trưởng lực lượng phòng vệ Phủ tổng thống. Cùng đi theo hỗ trợ Bùi Quang Thận
cắm cờ còn có hai người nữa: sinh viên Nguyễn Hữu Thái [cựu Chủ tịch Tổng
hội Sinh viên Sài Gòn] và tiến sĩ báo chí
Huỳnh Văn Tòng.
“Tiến sĩ Huỳnh Văn
Tòng và sinh viên Nguyễn Hữu Thái cùng nhà báo Cung Văn đến dinh Độc Lập sau
khi nghe ông Dương Văn Minh tuyên bố ngừng bắn trên đài phát thanh. Họ đến để
đón quân giải phóng và hi vọng góp phần nhỏ của mình cho một kết cục hòa bình
và êm thắm nhất.
“Đêm 29/4 chúng tôi
không ngủ được - tiến sĩ Tòng nhớ lại - Sài Gòn lan truyền tin đồn Việt cộng đã
chuẩn bị hàng vạn quả đạn pháo và sẽ “rót” vào thành phố này sáng mai. Sài Gòn
sẽ đổ nát và dân chúng sẽ khốn khổ, nếu không có một giải pháp thích hợp nào.
Sáng sớm 30/4, anh em chúng tôi đã bàn nhau làm được nhiều việc. Và chúng tôi
kéo nhau đến dinh Độc Lập. Tôi không phải là “thành phần thứ ba”. Tôi ngả hẳn
về phía cách mạng và mong muốn Sài Gòn được giải phóng nhanh chóng”.
Tôi hoàn toàn bất ngờ khi đọc những lời kể lại của Tiến sĩ
Báo chí Huỳnh Văn Tòng, ông xác nhận: “Tôi
không phải là “thành phần thứ ba”. Tôi ngả hẳn về phía cách mạng và mong muốn
Sài Gòn được giải phóng nhanh chóng”. Từ ‘thành phần thứ ba’ rồi ‘ngả về phía cách mạng’ một sớm một chiều
như vậy quả là những kẻ cơ hội kiểu ‘cách mạng 30’, một thành phần mà người ta
thường nói nôm na là ‘theo đóm ăn tàn’. Thực tế đã chứng minh, loại người như
vậy hoàn toàn không có đất sống vì cả ‘cách mạng’ lẫn ‘ngụy’ đều không dám
dùng!
“...Đại tá Chiêm dẫn
ba người đến trước thang máy [phải đi thang máy vì cầu thang chính không
còn sử dụng được, do bị phi công Nguyễn Thành Trung ném bom làm sập ngày 8/4]. Đến trước thang máy, Bùi Quang Thận thấy...
lạ quá nên nhất quyết không vào. “Lúc đó tôi thấy thang máy giống như... cái
hòm - Bùi Quang Thận nhớ lại - Vào đó nó nhốt mình luôn, biết bao giờ mới ra được!”.
Bùi Thanh đã kể một chi tiết vừa tội nghiệp vừa buồn cười
cho Bùi Quang Thận. Tội nghiệp vì cả đời anh chưa biết thế nào là thang máy nên
nhất quyết không bước vào vì nó giống như một cái hòm… Buồn cười vì anh suy
nghĩ một cách thật thà: “Vào đó nó nhốt
mình luôn, biết bao giờ mới ra được!”.
“Sau khi nghe đại tá
Chiêm giải thích, Bùi Quang Thận mới chịu vào nhưng lại cảnh giác yêu cầu ông
đại tá vào trước... Cuối cùng thì Bùi Quang Thận, Huỳnh Văn Tòng, Nguyễn Hữu
Thái cũng lên được nóc dinh.
“…Chúng tôi còn trèo
thêm một cầu thang gỗ mới ra được chân cột cờ [kiến trúc sư Nguyễn Hữu Thái
kể] để treo lá cờ giải phóng lên, phải hạ
lá cờ vàng ba sọc xuống. Nhưng lá cờ ba sọc quá lớn, lại được cột chắc chắn nên
phải mất khá lâu chúng tôi mới hạ xuống được”. Bùi Quang Thận kéo lá cờ giải
phóng xanh đỏ sao vàng lên, sau khi viết và ký tên vào lá cờ: “11g30 ngày 30-4.
Thận”.
Theo tôi, Bùi Quang Thận đã có một ý tưởng tuyệt vời khi ký
tên vào lá cờ. Tôi cho rằng đây là một sáng kiến cá nhân, hoàn toàn không có sự
chỉ đạo từ trước vì lúc đó mạnh ai nấy làm.
“…Và thật kỳ lạ, trong
khoảnh khắc lịch sử ấy, trên nóc dinh Độc Lập có ba chàng trai của ba miền đất
nước: Bùi Quang Thận (Thái Bình, miền Bắc), Nguyễn Hữu Thái (Đà Nẵng, miền
Trung) và Huỳnh Văn Tòng (Tây Ninh, miền Nam). “Dường như tất cả chúng tôi đều
không cầm được nước mắt - KTS Nguyễn Hữu Thái nhớ lại - Sài Gòn đã được giải
phóng, hòa bình được lập lại và đất nước từ nay thống nhất làm một, không gì có
thể chia cắt được nữa…
“...Bùi Quang Thận lúc
đầu định ném lá cờ ba sọc xuống sân, nhưng nghĩ tới nghĩ lui sao đó, xếp lá cờ
lại và đem xuống cất vào chiếc xe tăng 843 của mình. Cũng nhờ vậy mà sau này
Bùi Quang Thận mới đưa ra được “bằng chứng”, khi cấp trên cho người đi xác
minh: ai mới là người cắm cờ trên nóc dinh Độc Lập? Lá cờ cất trong xe tăng của
Bùi Quang Thận có một vết rách trùng khớp với phần còn sót lại trên cột cờ!
Một chi tiết lịch sử khá thú vị: cất lá cờ ba sọc trên xe
tăng để sau này dùng làm bằng chứng xác minh mình là người cắm cờ trên nóc dinh
Độc Lập. Có thể nói, việc chiếm dinh Độc Lập hoàn toàn theo một kịch bản ‘tự
biên tự diễn’. Đơn vị nào đến trước thì tùy theo sáng kiến của sĩ quan chỉ huy
đơn vị đó. Thật trớ trêu, cuộc chiến Việt Nam kéo dài suốt 30 năm, tốn kém hàng
tỷ đô la và cướp đi sinh mạng của hàng triệu người lại được kết thúc bằng một
màn kịch tự biên tự diễn!
Lá cờ của Mặt trận Giải phóng Miền Nam do Bùi Quang Thận treo trên dinh Độc Lập |
“…Thật ra, cùng lúc lá
cờ ba sọc được hạ xuống trên nóc dinh thì các chiến sĩ bộ binh trung đoàn bộ
binh 66 và biệt động đặc công trung đoàn 116 cũng đã phất những lá cờ giải
phóng từ bancông tầng hai. Lá cờ xanh đỏ sao vàng lớn nhất được phất lên lúc đó
là của một người dân ở miệt Thị Nghè. Ông cầm lá cờ lao ra từ Thảo cầm viên,
rồi leo lên chiếc xe Jeep của đại úy Phạm Xuân Thệ vào dinh, ít phút sau khi xe
tăng 390 húc đổ cổng sắt.
“Và trung đoàn phó
trung đoàn bộ binh 66 Phạm Xuân Thệ cũng là viên chỉ huy đầu tiên ‘làm việc’
với tổng thống Dương Văn Minh và những người bên trong dinh. Giống như Bùi
Quang Thận trong khoảnh khắc đầu tiên, Đại úy Phạm Xuân Thệ cũng hơi ngỡ ngàng
và chưa biết phải làm gì: “Tôi chỉ được giao nhiệm vụ chiếm dinh Độc Lập. Việc
của tôi là kiểm soát tòa nhà và cho anh em lên cắm cờ. Làm việc gì và làm như
thế nào với Tổng thống và nội các này đây?”.
“…Tổng thống Dương Văn
Minh thông báo đã tuyên bố ngừng bắn và đang chuẩn bị tiến hành bàn giao chính
quyền cho Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam
Việt Nam.
Nhưng trung đoàn phó Phạm Xuân Thệ không chấp nhận chuyện bàn giao mà tuyên bố:
phải đầu hàng!
“…Và Trung úy Phùng Bá
Đam cùng các sĩ quan bộ binh đã bàn với Phạm Xuân Thệ là cho tuyên bố đầu hàng
ngay tại dinh. Nhưng đường dây từ dinh Độc Lập ra đài phát thanh không hoạt
động được nữa do nhân viên đài lúc ấy đã “biến” hết. Phải ra đài phát thanh!
Ngay lúc đó, Trung tá
Chính ủy lữ đoàn xe tăng 203 Bùi Văn Tùng xuất hiện. Các sĩ quan biệt động đặc
công đưa ông vào gặp Tổng thống Dương Văn Minh. Trung tá Bùi Văn Tùng cũng bác
bỏ lời đề nghị bàn giao chính quyền và tuyên bố giải pháp duy nhất là phải đầu
hàng.
Bùi Thanh trong bài báo Giờ
kết thúc, kết luận như sau:
“Thật ra thì những gì
xảy ra trong 40 phút đó rất căng thẳng và đầy kịch tính. Nhưng Tuổi Trẻ xin
không nêu lại vì xét thấy không cần thiết nữa”.
***
Lịch sử Việt Nam
đã chính thức sang trang sau một khúc quanh khắc nghiệt ngày 30/4/1975. Khắc
nghiệt đối với miền Nam nhưng lại vinh quang đối với niền Bắc. Đây cũng là một
biến cố bi thảm khiến hàng triệu người bỏ nước ra đi, để trám vào chỗ đó, hàng
triệu người di dân từ miền Bắc vào Nam để tìm cuộc sống mới.
Có người cho rằng, lịch sử là một sự lập lại. Điều này được
kiểm chứng bằng cuộc di cư vào Nam
năm 1954 và sau đó là cuộc di tản ra
nước ngoài và di dân từ miền Bắc vào
Nam sau 1975. Di cư, Di tản và Di dân có những lý do và mục đích rất
khác nhau nhưng người Việt nói chung đã trải qua nhiều biến động, thăng trầm
của lịch sử.
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire