“ANH HÙNG VÀ KẺ BỘI PHẢN
TRONG QUÂN LỰC VNCH,”
Thiện Giao, phóng viên đài RFA
2008-02-19
Thiện Giao, phóng viên đài RFA
2008-02-19
MỘT TIẾNG NÓI MỚI VỀ CHIẾN TRANH VIỆT NAM
Buổi ra mắt tác phẩm nghiên cứu lịch sử về chiến
tranh Việt Nam của giáo sư Andew Wiest tại thành phố Falls Church có
thể được xem là cơ hội để những người bạn cũ, những đồng đội cũ, của 40
năm trước gặp lại nhau. Họ có thể là những mảnh vụn, bị phân tán khắp
nơi sau khi chia tay, để rồi, với tác phẩm nghiên cứu của Wiest, họ lại
được sắp vào nhau như một khoa học ghép hình, góp phần tái lập lại hình
ảnh đúng đắn hơn cho một quân đội, theo lời giáo sư Wiest, gần như
chưa bao giờ được thế giới Tây Phương thừa nhận và đối xử công bằng.
*Cuộc chiến không thể diễn tả hết bằng giấy mực
Thành phố Falls Church, ngày 17 tháng Hai, năm 2008.
Tại buổi lễ ra mắt tác phẩm nghiên cứu lịch sử của giáo sư Andrew
Wiest. Tác phẩm có tên “Vietnam’s forgotten Army. Heroism and
betrayal.”
“Hãy cho tôi giải thích tại sao tôi viết cuốn sách
này. Tôi chỉ mới 14 tuổi khi Sài Gòn thất thủ, còn quá trẻ cho cuộc
chiến Việt Nam! Nhưng tôi đã nhìn thấy cuộc chiến ấy mỗi ngày, trên
tivi, trong ánh mắt những thanh niên Hoa Kỳ đàn anh trở về từ chiến
trường Việt Nam, trên khuôn mặt những người Việt Nam được các nhà thờ
trong địa phương bảo trợ sang Hoa Kỳ sau cuộc chiến. Nhưng tôi cũng nhận
ra một điều: không một ai có thể giải thích cuộc chiến ấy! Đối với
tôi, đó là một bí ẩn. Và chắc hẳn, đó cũng là bí ẩn trung tâm của thế
hệ chúng tôi. Và tôi quyết định đi tìm câu trả lời.” (Tiến sĩ Andrew
Wiest)
Andrew Wiest, giáo sư sử học, Giám Đốc Trung Tâm
Nghiên Cứu Chiến Tranh và Xã Hội tại đại học Southern Mississippi trình
bày nguyên ủy ra đời của tác phẩm “Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, Một
Quân Đội Bị Quên Lãng. Anh Hùng và Kẻ Bội Phản.”
Đối với Andrew Wiest, chiến tranh Việt Nam là một
lớp học không có giáo sư, một cuốn sách không có tác giả, một điều cấm
kỵ mà dường như hầu hết người Mỹ muốn quên đi.
Wiest không chọn thái độ đó, và ông quyết định một
phương pháp giảng dạy mới. Đó là, mời các cựu chiến binh đến giảng bài,
và sau đó, chính ông đưa họ cùng các sinh viên sang Việt Nam, để tìm
hiểu chiến trường của hơn 30 năm trước, và cũng để đi tìm diện mạo của
một quân đội mà ông gọi là “bị bỏ quên.”
“Trong thời gian ở Việt Nam, tôi gặp một người đàn
ông có tên là Phạm Văn Đính, đã tham gia chiến tranh Việt Nam. Qua câu
chuyện ông ta kể, tôi thấy ông ta là một bí ẩn. Tôi tin rằng, tôi sẽ
cần phải nói chuyện với ông ta nhiều hơn nữa để học hỏi.
Sau khi trở lại Hoa Kỳ, tôi hỏi rất nhiều người về
Phạm Văn Đính. Tất cả đều nói, nếu tôi muốn biết nhiều hơn về Đính, có
một người có thể kể cho tôi. Người đó tên là Trần Ngọc Huế, đã kết thúc
cuộc đời binh nghiệp theo một con đường hoàn toàn khác Phạm Văn Đính.”
Và cuốn sách ra đời. Tác phẩm của Wiest là một công
trình thuần túy lịch sử, nhưng cấu trúc được xây dựng lạ lùng, và chủ
đề được tiếp cận nhân bản.
*Cuộc gặp gỡ định mệnh
“Anh Hùng và Kẻ Bội Phản” cũng đầy những con số, địa
danh, tên gọi, tổn thất. Nhưng “Anh Hùng và Kẻ Bội Phản” không lạnh
lùng, vô cảm. Tác phẩm được xây dựng trên 2 nhân vật chính, có thật,
hoàn toàn có thể kiểm chứng trực tiếp hoặc gián tiếp. Hai nhân vật có
tên Phạm Văn Đính và Trần Ngọc Huế.
Cả hai gặp nhau trong một sự sắp xếp trớ trêu của
định mệnh. Trước hết, họ là đồng hương, là người Huế, và cùng yêu cố đô
với tình cảm mãnh liệt. Cả hai đều chọn binh nghiệp. Sĩ quan Phạm Văn
Đính, sinh năm 1937, tốt nghiệp trường Võ Bị Thủ Đức, sĩ quan Trần Ngọc
Huế, sinh năm 1942, tốt nghiệp Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt.
Con đường binh nghiệp của cả hai sĩ quan trẻ gặp nhau tất cả 5 lần.
Bốn lần đầu, trong vinh quang, khi cả hai cùng liên
tiếp được thăng cấp rất nhanh trong vai trò sĩ quan tác chiến. Sự gan
dạ và các chiến tích của họ được tác giả cuốn sách gọi là “Thời Đại Của
Những Anh Hùng.”
Hac BaoTrần Ngọc Huế
Lần gặp thứ năm, cũng là lần cuối cùng, cả hai không
thể lường trước, về hoàn cảnh, về địa điểm, và cả tư thế. Lần gặp này,
một trong hai người sẽ phải ân hận cho đến cuối đời.
*Một quân đội anh hùng
Tạm rời câu chuyện của Phạm Văn Đính và Trần Ngọc
Huế để trở lại hành trình tìm hiểu chiến tranh Việt Nam của tác giả
Andrew Wiest.
“Không như những gì thế giới Phương Tây đã
nghĩ, miền Nam Việt Nam đã chiến đấu cực kỳ anh dũng trong 20 năm. Anh
dũng hơn cả những gì mà thế giới Tây Phương, cho đến thời điểm này, vẫn
viết, vẫn tin và vẫn hình dung. Trong các trận đánh, từ chiến trường
nhỏ trước Mậu Thân, và mở rộng ra sau đó, họ đã chiến đấu rất can đảm và hiệu quả.”
Wiest, ở tuổi 14 khi chiến tranh kết thúc. Có thể
xem Wiest là thế hệ hậu chiến. Wiest, tại sao bị ám ảnh bởi cuộc chiến?
Cuộc chiến tranh Việt Nam là vậy. Hãy nghe nhận định của giáo sư
Nguyễn Ngọc Bích, một diễn giả trong buổi ra mắt sách.
“Những câu chuyện thân tình mà Trung Tướng
William Bolt vừa kể về Trần Ngọc Huế cho thấy ông tin rằng Huế đã chết,
thế mà đột nhiên ông ta lại xuất hiện. Cuộc chiến Việt Nam là như vậy.
Khó hiểu thật.
Tôi thuộc vào thế hệ chiến tranh, và tôi không thể
lấy cuộc chiến ấy ra khỏi đầu tôi, rõ ràng là như vậy. Thế nhưng những
thế hệ trẻ hơn, chẳng hạn giáo sư Wiest, tác giả cuốn sách này, thì rõ
ràng, cuộc chiến Việt Nam lại quay về, và ám ảnh chúng ta.”
Hãy quay trở lại với hai sĩ quan trẻ Trần Ngọc Huế
và Phạm Văn Đính. Hãy hình dung chiến trường Tchepone, Hạ Lào, gần 40
năm về trước.
Một đêm cuối tháng Ba năm 1971, trong khuôn
khổ chiến dịch Lam Sơn 719, Trần Ngọc Huế lúc đó đang ở Tchepone, bị
thương và ngất lịm. Ông ra lệnh cấp dưới mở đường máu thoát thân, để
ông lại trận địa nhằm tránh gây cản trở trên đường tháo lui. “Giấc Mơ
Bị Vỡ Vụn,” là tên của chương sách nói về trường hợp sĩ quan Trần Ngọc
Huế bị bắt làm tù binh.
Về phần Phạm Văn Đính, trong giai đoạn cuối của hành
quân Lam Sơn 719, được lệnh đưa đơn vị đến Khe Sanh để yểm trợ và đóng
cửa căn cứ. Vòng vây Bắc Việt xiết chặt, tình thế hiểm nghèo. Phạm Văn
Đình 2 lần nhận được yêu cầu của phía Bắc Việt: Đầu hàng để được toàn
mạng. Trung tá Phạm Văn Đính quyết định đầu hàng, ở tuổi 35, khi còn 2
tháng nữa thì được vinh thăng đại tá. “Kẻ Bội Phản” là chương sách nói
về trường hợp của trung tá Phạm Văn Đính.
Một năm sau, tại một trại tù binh ở Sơn Tây, trung
tá Đính và thiếu tá Huế gặp nhau lần thứ năm. Huế bàng hoàng nhận ra,
trung tá Đính của quân lực Việt Nam Cộng Hòa ngày nào, bây giờ đã là
trung tá Đính quân đội nhân dân, đến gặp, nói chuyện và tế nhị chiêu dụ
thiếu tá Huế hợp tác với miền Bắc. Thì ra, chỉ một thời gian ngắn sau
khi trung tá Đính đầu hàng, ông đã quyết định đổi bộ quân phục, hợp tác
và được chuyển ngang cấp bậc sang phía quân đội Bắc Việt.
Thiếu tá Huế từ chối hợp tác, bị giam đến năm 1973,
có tên trong danh sách trao đổi tù binh theo Hiệp Định Paris. Ông được
đưa đến địa điểm trao đối tù binh thuộc tỉnh Quảng Trị, có thể nhìn
thấy cảnh cũ ở bên kia biên giới, tay đã chạm vào tự do, và rồi, một sĩ
quan Bắc Việt tiến đến, nói rằng Huế bị bắt tại Lào nên không phải là
tù binh của Bắc Việt. Ông không được trả tự do.
Năm 1983, thiếu tá Huế ra tù, về sống tại Sài Gòn,
sau đó sang Hoa Kỳ và định cư tại thành phố Falls Church, tiểu bang
Virginia, cho đến nay.
Trung tá Phạm Văn Đính thì đã qua đời hồi năm ngoái,
tại Việt Nam, sau một lần sang Hoa Kỳ để trả lời phỏng vấn của tiến sĩ
Wiest, tác giả cuốn sách đang được nói đến. Tại đây, những đồng đội
ngày xưa, tức những kẻ thù bây giờ, kể cả các cố vấn Hoa Kỳ, từ chối
gặp mặt ông.
*Lịch sử không công bằng
Tác giả Wiest khẳng định, quân lực Việt Nam Cộng Hòa
là một quân lực bị bỏ quên. Trong tư thế một sử gia, Wiest khẳng định,
bằng chính nghiên cứu của mình, rằng quân lực Việt Nam Cộng Hòa là một
quân lực anh dũng, đã chiến đấu trong cuộc chiến 20 năm để bảo vệ tự
do.
Quân lực ấy có rất nhiều anh hùng, nhưng không
được lịch sử đối xử công bằng. Wiest nói, Tây Phương chỉ viết về chiến
tranh Việt Nam như một cuộc chiến chỉ có người Hoa Kỳ đánh nhau. Thực
tế không phải như vậy, và càng không phải như vậy khi người Hoa Kỳ rút
khỏi Việt Nam. Hãy nghe thiếu tướng Creighton Abrams, con trai cố đại
tướng Abrams nhắc lại những gì thân phụ ông suy nghĩ.
“Một sĩ quan người Anh đã phát biểu về cha tôi, rằng
Abrams giỏi lắm, rất giỏi. Đáng lý ra ông ta phải có một cuộc chiến
tốt hơn. Tôi không đồng ý với nhận định ấy. Đến hôm nay tôi vẫn tin,
cũng như cha tôi đã từng nói, quân đội miền Nam Việt Nam đáng cho những
gì tốt nhất mà ông đã ra công. Và ông thấy hãnh diện đã từng cùng họ
phục vụ một cuộc chiến mà kết thúc cuối cùng không như mong muốn.”
Để kết thúc, xin được giới thiệu trích đoạn trong
lời đề tựa trên tác phẩm “Anh Hùng và Kẻ Bội Phản.” Lời đề tựa do
thượng nghị sĩ James Webb, cựu Bộ Trưởng Hải Quân, và cũng là cựu chiến
binh Việt Nam, viết, có đoạn đại ý như sau:
Câu chuyện của Phạm Văn Đính và Trần Ngọc Huế không
phải là những câu chuyện dễ cảm nhận. Điều quan trọng không phải là
nhìn vào một Việt Nam vươn mình từng năm một vào cộng đồng thế giới. Để
hiểu được hai hành trình trái ngược này, phải nhìn vào một Việt Nam
những ngày đầu thoát ra khỏi bóng tối của cuộc chiến.
Hãy nhìn như vậy, để cảm nhận một Trần Ngọc Huế
chiến sĩ dũng cảm, trả giá đắt cho lòng trung thành nhưng chẳng bao giờ
phải trả lời câu hỏi về danh dự. Trong khi đó, con đường mà Phạm Văn
Đính đã chọn, ít đau đớn hơn, nhưng lại trở nên phức tạp hơn ở hồi kết
thúc.”
Tác giả Wiest nói rằng, sự chọn lựa của hai nhân vật
chính, nhất là quyết định “thay đổi bộ quân phục” của Phạm Văn Đính,
sẽ do chính độc giả tự đánh giá. Mục đích của Wiest là, thông qua câu
chuyện của hai sĩ quan này, trình bày lại sự thật về một quân đội quả
cảm nhưng bị đối xử thiếu công bằng về mặt lịch sử.
Mà đó cũng là công việc của Wiest, một sử gia. Có
người đã từng phát biểu, rằng “không có sử gia, sự thật sẽ vĩnh viễn
nằm trong bóng tối.”
Andrew Weist, thông qua “Anh Hùng và Bội Phản,” đã phần nào đưa được sự thật ra ánh sáng.
(Washington 19.2.2008)
Hai cựu cố vấn Hoa Kỳ chụp hình chung hai cựu chiến sĩ đại đội Hắc Báo năm xưa. (Hình: Thiện Giao/RFA)
Tác giả Andrew Wiest ký tặng sách trong ngày ra mắt “Anh Hùng và Bội
Phản” tại Falls Church, Virginia, ngày 17 tháng Hai. (Hình: Thiện
Giao/RFA)
Cử tọa Hoa Kỳ trong ngày ra mắt “Anh Hùng và Bội Phản.” Người ngồi hàng
đầu bên trái là thiếu tướng hồi hưu Creighton Abrams (con trai cố đại
tướng Creighton Abrams), người thứ ba từ trái sang là trung tướng hồi
hưu William J. Bolt. Người thanh niên ở bìa phải là trung tá Mike
Cooligan, đại diện thân phụ, đại tá Jim Cooligan (cũng là một cố vấn tại
Huế giai đoạn 1968), đến tham dự lễ ra mắt sách. (Hình: Thiện Giao/RFA)
*
* *
*
* *
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire